HIỆN TƯỢNG CẢM THẤY MỘT SỰ KIỆN, VẬT THỂ, NƠI CHỐN THÂN QUEN MẶC DÙ CHƯA TRẢI QUA TRƯỚC ĐÓ

Bạn đã từng bao giờ đến thăm một cửa hàng lần đầu tiên nhưng đã có cảm giác quen thuộc? Hoặc trong lúc đang mải mê trò chuyện với một người bạn; bạn có cảm giác mình đã từng có cuộc trò chuyện như thế này trước đây. Mặc dù bạn biết chắc rằng cuộc trò chuyện này chưa hề xảy ra. Nếu bạn từng trải qua những tình huống tương tự thì chúng tôi nghĩ rằng bạn đã trải nghiệm cảm giác déjà vu.

ảnh từ donggoitrithuc.com - deja vu
Ảnh: Trần Cẩm Thành

Trong tiếng Pháp, déjà vu là một thuật ngữ có nghĩa đen là “đã nhìn thấy”. Có hơn 40 giả thuyết về nguyên nhân gây ra nó. Các giả thuyết đa dạng từ việc tái tạo cho đến những trục trặc trong quá trình ghi nhớ của con người. Trong bài viết, chúng ta sẽ khám phá một vài trong số các giả thuyết trên để làm sáng tỏ về hiện tượng này.

Có nhiều thứ được định nghĩa là “déjà vu” nhưng chúng không phải là những trải nghiệm “déjà vu” thật. Tuy các nhà nghiên cứu có thể đưa ra những khái niệm của họ. Nhưng nhìn chung, đây là tình trạng bạn cảm thấy mình đã từng thấy hay trải qua một điều gì đấy mà bạn biết chắc chắn chúng chưa từng xảy ra trước đây.

Một trong những sự nhầm lẫn phổ biến nhất được xem là tiềm nhận thức về tương lai (precognitive experience). Đó là những kiến thức hay cảm nhận của bạn về tương lai, về một điều bạn biết chắc chắn sẽ xảy ra và nó thật sự xảy ra trong tương lai.

Đây là điểm phân biệt mấu chốt giữa déjà vu và precognitive experience: Déjà vu là cảm giác của bạn trong lúc sự kiện diễn ra. Trong khi đó, precognitive experience là cảm giác trước khi sự kiện diễn ra. Precognitive experience sẽ giúp bạn dự đoán những điều sẽ xảy ra trong tương lai, chứ không phải cảm giác về chuyện đã xảy ra trong quá khứ.

Ảo giác do bệnh tật; ma túy hay các bệnh tâm thần phân liệt cũng dễ làm chúng ta nhầm lẫn với déjà vu. Tuy nhiên, nó chỉ thường kéo dài 10-30 giây; trong khi những kỷ niệm sai lệch từ các bệnh tâm thần hoặc ảo giác có thể kéo dài lâu hơn.

Phân loại Déjà vu

Thường rất khó để có thể chia Déjà vu thành các thể loại hoàn toàn riêng biệt. Tuy thế, chúng ta có thể chia Déjà vu theo 2 loại chính như sau:

Associative déjà vu

Associative déjà vu là loại phổ biến nhất. Đây là trải nghiệm hết sức thông thường. Tất cả chúng ta đều có thể từng trải qua cảm giác này.

Khi bạn nhìn, nghe, ngửi hoặc trải nghiệm điều gì đấy mà chúng tạo cho bạn sự liên hệ với những điều bạn từng trải qua tương tự trước đây. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng loại déjà vu này là kinh nghiệm dựa trên trí nhớ và chính một cơ quan của não chịu trách nhiệm cho cảm giác này.

Biological déjà vu

Biological déjà vu xuất hiện ở những người bị động kinh thùy thái dương (temporal lobe epilepsy). Ngay trước khi trải qua cơn động kinh, họ thường trải qua một cảm giác mạnh mẽ của déjà vu. Điều này giúp việc nghiên cứu déjà vu trở nên đáng tin cậy hơn. Các nhà nghiên cứu có thể xác định được các khu vực não chịu trách nhiệm cho việc tạo nên các cảm giác déjà vu.

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu nói rằng loại déjà vu thấy ở các bệnh nhân này khác biệt so với Associative déjà vu. Những người trải qua Biological déjà vu; thường tin chắc chắc rằng họ đã trải qua một tình huống tương tự trước đây; hơn là cảm giác chỉ thoáng qua như những người trải qua Associative Déjà vu.

Những nghiên cứu liên quan

Déjà vu là một lĩnh vực vô cùng khó khăn để nghiên cứu. Vì nó xảy ra trong một thời gian ngắn, không báo trước; chỉ xuất hiện ở một số người nhất định. Và không có người quan sát hiện tượng xảy ra ngoài bản thân người trải nghệm chính cảm giác này. Nghiên cứu Déjà vu phải phụ thuộc vào dữ liệu từ sự mô tả cá nhân và hồi ức.

Trong hai thế kỷ qua, người ta đã cố gắng để đưa ra những lý cho sự trải nghiệm vu déjà. Từ các triết gia, nhà tâm lý học, các chuyên gia huyền thuật, đều có lý thuyết của họ.

Emile Boirac, nhà tâm thần học người Pháp; là người đầu tiên đưa ra định nghĩa về déjà vu trong cuốn “L’Avenir des Sciences Psychiques”. Tuy nhiên, ông không nghiên cứu sâu về hiện tượng này. Sigmund Freud đưa ra giả thuyết: déjà vu là những mong ước hay ký ức liên quan đến một sự kiện căng thẳng trong quá khứ. Chính vì vậy, con người không thể nghĩ về chúng như một loại trí nhớ thông thường. Các nhà khoa học đã dùng thuật ngữ “paramnesia” để giải thích cho hiện tượng déjà vu trong thế kỷ 20.

Khoa học hiện đại không còn lưu ý đến déjà vu; do sự liên hệ của nó với trải nghiệm cuộc sống trong quá khứ; ngoại cảm và sự bắt cóc của người ngoài hành tinh. (Ghi chú của người biên tập: khoa học phương Tây chú trọng vào việc nghiên cứu vào những điều có thể chứng minh dựa trên thí nghiệm có kết quả, số liệu; hơn là những điều chưa thể chứng minh như tiềm nhận thức, giấc mơ, v.v).

Gần đây, các nhà nghiên cứu đã dần gạt bỏ các kỳ thị dành cho việc nghiên cứu déjà vu. Họ đưa vào công nghệ hình ảnh não. Với sự tập trung nghiên cứu déjà vu thông qua bộ nhớ; họ hy vọng sẽ khám phá thêm về việc ký ức được hình thành, lưu trữ và lấy ra như thế nào.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, thùy trung gian tạm thời (medial temporal lobe ) tham gia vào quá trình tạo ra trí nhớ có nhận thức. Trong thùy thái dương trung gian là các nếp cuộn parahippocampal (parahippocampal gyrus); vỏ não rhinal (rhinal cortex) và hạch hạnh nhân (amygdala). Nhà nghiên cứu John D.E. Gabrieli tại Đại học Stanford vào năm 1997 cho rằng; điểm đồi hải mã (hippocampus) cho phép chúng ta ý thức nhớ lại các sự kiện. Ông cũng tìm thấy rằng; các nếp cuộn parahippocampal giúp chúng ta xác định sự quen thuộc của một sự việc mà không cần sử dụng thêm một loại trí nhớ

Các yếu tố tác động đến hiện tượng

Trong số 60% người đã từng trải nghiệm déjà vu; tỉ lệ cao nhất nằm trong số những người trong độ tuổi từ 15 đến 25. Độ tuổi trên khác nhau tùy theo các nghiên cứu, nhưng hầu hết đều đồng ý rằng chúng giảm theo tuổi tác. Mức độ thường xuyên trải nghiệm cũng nhiều hơn đối với những người có thu nhập cao; những người có xu hướng du lịch nhiều; người có trình độ học vấn cao. Bên cạnh đó, những người thường trải qua déjà vu cũng có xu hướng tưởng tượng phong phú và khả năng nhớ lại các giấc mơ.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng sự mệt mỏi hoặc căng thẳng khiến chúng xuất hiện nhiều hơn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khác lại kết luận điều ngược lại: càng thoải mái và thư thả, bạn càng có nhiều khả năng.

Ngoài ra, theo một báo cáo kết luận: những người càng cởi mở hay tự do về chính trị thì càng có nhiều khả năng trải nghiệm déjà vu. Đồng thời; một nghiên cứu trái chiều cho rằng: bạn càng cởi mở, thì việc bạn cho rằng một điều gì đó “lạ lẫm” sẽ càng ít.

Có thể thấy rằng, hiện vẫn có nhiều luận điểm và giả thuyết trái ngược nhau về hiện tượng này.

Học thuyết Phân tán nhận thức
(Divided Attention – The Cellphone Theory)

ảnh từ donggoitrithuc.com

Tiến sĩ Alan Brown đã tái tạo một trải nghiệm mà ông cho là tương tự như déjà vu. Trong các nghiên cứu tại Đại học Duke và SMU; ông và đồng nghiệp Elizabeth Marsh đã cho một nhóm sinh viên xem một số các hình ảnh; và yêu cầu họ đánh giá sự quen thuộc của các hình ảnh này.

Trước đó, nhóm nghiên cứu đã lướt những hình ảnh lên màn hình ở tốc độ cực ngắn; khoảng 10 đến 20 phần nghìn giây. Đây là mức thời gian đủ dài để não bộ ghi nhớ đã các hình ảnh nhưng lại không đủ ngắn để các sinh viên không kịp xây dựng các nhận thức về hình ảnh.

Kết quả cho thấy; những hình ảnh được chiếu trên các màn hình sẽ tạo cảm giác quen thuộc cao hơn các hình ảnh chưa từng được trình chiếu. Larry Jacoby và Kevin Whitehouse tại Đại học Washington; cũng đưa ra kết quả tương tự khi họ thay đổi các hình ảnh bằng các từ ngữ.

Dựa trên nghiên cứu này, Alan Brown đề xuất học thuyết “The Cellphone”; hay còn gọi là Phân tán sự nhận thức (Divided Attention).

Khi chúng ta rơi vào tình trạng không tập trung; những thứ xung quan chúng ta có thể đi vào tiềm thức của chúng ta. Sau đó, khi chúng ta bắt đầu tập trung; chính những điều kiện của môi trường dần được nhận thức rõ rệt. Chúng trở nên quen thuộc với chúng ta.

Một ví dụ là khi chúng ta bước vào ngôi nhà lần đầu tiên và trải qua déjà vu. Trước khi chính thức tập trung quan sát căn phòng; bộ não đã vô thức xử lý những thông tin về vị giác, thính giác, thị giác. Chính vì vậy, khi bắt đầu tĩnh tâm và chú ý đến căn phòng; chúng ta cảm thấy như đã từng ở đây.

Học thuyết Hologram

Nhà tâm thần học người Hà Lan, Hermon Sno; đề xuất ý tưởng hologram: chúng ta có thể tạo ra không gian ba chiều từ bất kỳ một chiều bất kỳ nào trong tổ hợp đó. Một chiều càng nhỏ thì bức tranh của chúng ta càng rối rắm. Hermon Sno giải thích: bất kỳ đặc tính nào của môi trường (hình ảnh; âm thanh; vị) mà quen thuộc với một trải nghiệm gần đều có khả năng khiến con người ghi nhớ lại toàn bộ trải nghiệm một cách rõ ràng.

Các nhà nghiên cứu khác cũng đồng ý với kết luận chỉ cần một cảm giác quen thuộc nhỏ cũng có thể tạo nên. Ví dụ, bạn có thể đi trên chiếc xe cũ kỹ đời 1964 Plymouth và có cảm giác cực kỳ quen thuộc. Bạn không thể nhớ rằng bà ngoại của bạn cũng có chiếc xe tương tự và khi còn nhỏ bạn đã từng cùng bà đi trong chiếc xe đó. Những giác quan như mùi vị của chiếc xe; bản điều khiển đều có thể khiến những kỷ niệm quay trở về; ngay cả khi bạn không còn nhận thức được sự tồn tại của những kỷ niệm đó.

Xử lý thông tin cùng lúc
Dual Processing (Delayed Vision)

Một học thuyết nữa dựa trên cơ chế não xử lý và lưu trữ các thông tin. Robert Efron cho rằng một sự trì hoãn trong quá trình xử lý thông tin của não tạo ra déjà vu.

Thông tin đi vào não qua nhiều con đường khác nhau. Trong quá trình này, sự đồng bộ các thông tin không được xử lý tốt sẽ tạo ra déjà vu. Efron tìm ra temporal love tại não trái chịu trách nhiệm cho việc phân loại các thông tin; và quy trình này có những sự trì hoãn ở mức độ một triệu million giây.

Sự trì hoãn này xảy ra trong quá trình xử lý và xảy ra một lần nữa khi thông tin được chuyển qua não phải. Nếu sự trì hoãn này diễn ra lâu hơn mức bình thường; bộ não có thể phân loại những thông tin mới này là những ký ức (thông tin trong quá khứ). Quá trình này có thể giải thích cho một cảm giác bất ngờ của sự thân thuộc.

Ký ức từ những nguồn khác

ảnh từ donggoitrithuc.com

Học thuyết này cho rằng chúng ta lưu trữ trí nhớ từ nhiều yếu tố trong cuộc sống; không chỉ từ trải nghiệm cá nhân mà còn là phim; hình ảnh; sách. Ví dụ, khi còn là một đứa trẻ, chúng ta đã xem cảnh một nhà hàng nổi tiếng trong một bộ phim. Khi lớn lên, chúng ta đến thăm cùng địa điểm đó; và cảm thấy thân thuộc mà không nhớ ra về bộ phim.

Kết luận

Mặc dù déjà vu được nghiên cứu hơn 100 năm qua; chúng ta vẫn chưa có lời giải thích đồng nhất. Có lẽ sự phát triển của các công nghệ kỹ thuật trong tương lai sẽ giúp chúng ta tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Theo Minh Anh (How Stuff Works)

Xem thêm: Đóng khung tâm lý – “mê từ cái nhìn đầu tiên”

Quảng cáo
0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
29 Comments
Oldest
Newest Most Voted
Inline Feedbacks
View all comments
Thạch Thảo
Thạch Thảo
1 year ago

Đọc bài xong, mình mường tượng nó như là khi một khoảnh khắc mới xuất hiện, sự trì hoãn trong quá trình xử lý thông tin có thể khiến não bộ phân loại những dữ kiện mới lại thành ký ức. Có nghĩa là chúng ta sẽ có cảm giác như não mình đang “vẽ lại” điều gì đó trong quá khứ. Tuy nhiên, đây chỉ là cảm giác “bị đánh lừa” nên chúng ta sẽ không thể nào nhớ lại thời điểm sự kiện đã xảy ra.

Như Khương
Như Khương
1 year ago

Wow thế mà bấy lâu nay mình cứ lầm tưởng cảm giác là bản thân có thể thấy trước tương lai

Hoàng Yến
Hoàng Yến
1 year ago

Không biết Dejavu có xảy ra ở người cao tuổi không nhỉ?

Ái Loan
Ái Loan
1 year ago

Khi mình bị căng thẳng, hiện tượng Dejavu này diễn ra cũng nhiều hơn với bình thường.

Hà Hoàng
Hà Hoàng
1 year ago

Cảm giác quen thuộc khi trải nghiệm một sự kiện mà chắc chắn chưa hề xảy ra với mình trước đây có thể khiến mình choáng ngợp, những lúc như thế mình hay cố gắng suy nghĩ về hiện tại để cố thoát ra.

Gia Khiêm
Gia Khiêm
1 year ago

Nhiều nghiên cứu phát hiện thấy những ai có trải nghiệm Déjà vu có khả năng ghi nhớ tốt hơn những người ít trải qua cảm giác này. Vậy nên bạn hoàn toàn có thể sử dụng hiện tượng Déjà vu để luyện tập khả năng ghi nhớ của mình.

Thiên Bảo
Thiên Bảo
1 year ago

Mình cũng hay gặp hiện tượng deja vu, giờ mới thật sự hiểu

Bất Tri Hỏa
Bất Tri Hỏa
1 year ago

Khoảng 60% đến 70% những người có sức khỏe tốt trải qua một số hình thức déjà vu trong suốt cuộc đời của họ. Một hình ảnh hoặc âm thanh quen thuộc có thể kích hoạt cảm giác trong thời gian ngắn hoặc dài

Lộc Hoàng
Lộc Hoàng
1 year ago

Hình như Déjà vu xảy ra thường xuyên nhất với những người từ 15 đến 25 tuổi và chúng ta có xu hướng trải nghiệm cảm giác ít hơn khi chúng ta già đi.

Trần Nhật Minh
Trần Nhật Minh
1 year ago

Điều tạo nên hiện tượng này theo khoa học rằng trí nhớ được lưu trữ trong thùy thái dương của não. Phần não này giúp chúng ta nhận ra những trải nghiệm quen thuộc.

Hữu Thắng
Hữu Thắng
1 year ago

Trong khi khoa học vẫn chưa chứng minh được rằng trải nghiệm déjà vu hàng ngày là kết quả của những ký ức được lưu trữ trong khu vực thời gian, một số nhà nghiên cứu tin rằng có mối liên hệ giữa hai bên não tùy tạo nên hiện tượng này.

Hà Thắng Lê
Hà Thắng Lê
1 year ago

Một thí nghiệm được thực hiện để kiểm tra lý thuyết liên kết déjà vu với bộ nhớ liên quan đến việc tạo ra các kịch bản thực tế ảo dựa trên thế giới của trò chơi điện tử Sims

Hà Minh
Hà Minh
1 year ago

Một giải thích khoa học phổ biến về hiện tượng này là đó là triệu chứng của một cơn động kinh sắp xảy ra. Các bác sĩ đã lưu ý rằng những người bị động kinh thùy thái dương trải qua các trường hợp deja vu sống động. Các nhà nghiên cứu tin rằng cảm giác này là hiệu ứng của các kết nối thần kinh ở thùy thái dương của bạn làm “sai lệch” các tế bào thần kinh.

Anh Minh
Anh Minh
1 year ago

Nếu trong một thời gian hiện tượng deja vu xuất hiện liên tục thì sao nhỉ?

LUÂN
LUÂN
1 year ago

Mình thấy hiện tượng này thường xảy ra và hầu như ai cũng từng gặp phải

Khánh Hà
Khánh Hà
1 year ago

Hình như những ai có trải nghiệm Déjà vu có khả năng ghi nhớ tốt hơn những người ít trải qua cảm giác này thì phải

Last edited 1 year ago by Khánh Hà
Linh Lê
Linh Lê
1 year ago

bài viết bổ ích

vy nguyen
vy nguyen
1 year ago

Déjà vu đã được nghiên cứu từ rất lâu và mặc dù giới khoa học đã đưa ra nhiều lời giải thích nhưng tất cả vẫn còn dừng lại ở những giả thuyết khá mơ hồ. Nhưng chắc chắn đây là hiện tượng rất bình thường và ko ảnh hưởng gì đến sức khỏe cả

Mino Nguyen
Mino Nguyen
1 year ago

Theo các thống kê thì những người đi du lịch nhiều hoặc xem phim nhiều sẽ gặp qua Déjà vu nhiều hơn những người khác. Nhiều nghiên cứu cho thấy Déjà vu giảm dần theo độ tuổi.

Hạnh Nguyên
Hạnh Nguyên
1 year ago

Mình cũng từng tò mò về vấn đề này nhờ có bài chia sẻ của tác giả mình biết thêm được một điều thú vị.

Chấn Huy
Chấn Huy
1 year ago

Vote 5 sao cho tác giả.

Ngọc My
Ngọc My
1 year ago

Mình rất thích bài viết này và mong tác giả làm thêm phần chia sẻ về kí ức giả cho đủ bộ luôn.

Ngọc Hương
Ngọc Hương
1 year ago

Các nhà nghiên cứu cũng đã thống kê thấy có một số yếu tố đặc trưng tác động đến sự xuất hiện của trải nghiệm Deja vu như: tuổi tác, giới tính, điều kiện sống, tần suất đi du lịch, tình trạng căng thẳng, thuốc điều trị.

Jin Bi Wol
Jin Bi Wol
1 year ago

Mình thường xuyên gặp Deja Vu. Lần gần đây nhất mình mơ là mơ về việc crush đã có người yêu được hơn 3 năm (dù trc đó nó luôn chối đay đảy việc này). :)) Đến giờ khá là hận

Chung Nguyễn
Chung Nguyễn
1 year ago

Một số nghiên cứu đưa ra giả thuyết là thông tin mà chúng ta thu thập từ thế giới xung quanh có thể “rò rỉ” từ vùng trí nhớ ngắn hạn sang vùng trí nhớ dài hạn mà bỏ qua cơ chế chuyển giao thông tin điển hình.

Yến Nguyễn
Yến Nguyễn
1 year ago

Déjà vu như một ma thuận huyền bí khiến chúng ta trở thành một người có thể ” thấy trước tương lai”, quả thật rất ảo diêu

Hóa
Hóa
1 year ago

Bài viết rất hay và bổ ích, cảm ơn những chia sẻ của tác giả

Linh Linh
Linh Linh
1 year ago

Déjà vu còn được lý giải bằng nhiều giả thiết khác nhau như thuyết phân chia nhận thức khiến những điều xung quanh đi vào tiềm thức một cách tự nhiên khi con người đang tập trung rồi bị sao nhãng

Quyên
Quyên
1 year ago

Déjà vu có liên kết trực tiếp với chức năng của cơ cấu thần kinh và đây có thể là một “lỗi nhỏ trong hệ thống” do sự kích động cao của vùng hồi hải mã, là hiệu ứng của sự thay đổi trong vùng não nhạy cảm nhất và thường diễn ra khi hệ thần kinh đang trong thời kỳ phát triển