Các vị cha lập quốc Hoa Kỳ tin rằng, để thúc đẩy đến sự thịnh vượng, nền kinh tế thị trường tự do và sự can thiệp tối thiểu của chính phủ là hai điều không thể thiếu.
Hiến pháp Hoa Kỳ thiết kế, chỉnh lý toàn bộ thể chế chính trị của Hoa Kỳ. Tất nhiên nó cũng liên quan đến loại hệ thống kinh tế mà Hoa Kỳ nên áp dụng. Những vị sáng lập Hoa Kỳ cho rằng, hệ thống kinh tế do quy luật tự nhiên mang lại nên chứa đựng hai yếu tố; thị trường tự do và sự giám sát tối thiểu của chính phủ.
Ngay từ đầu Hoa Kỳ đã hiểu thấu đáo, và thực hiện đầy đủ tinh thần của kinh tế thị trường tự do và sự giám sát tối thiểu của chính phủ. Không có quốc gia nào làm điều tương tự vào thời điểm ấy. Châu Âu lúc này đang theo chế độ quân chủ.
Ở Scotland có một giáo sư đại học tên là Adam Smith, ông đã viết một cuốn sách nổi tiếng mang tên “Của cải của các dân tộc” – 1776 [The Wealth of Nations]. Cuốn sách này đã xây dựng một lý thuyết kinh tế như vậy. Thật ra không chỉ ông có suy nghĩ này. Một số nhà kinh tế học người Pháp cũng suy nghĩ những lý thuyết tương tự, nhưng ở Anh hay Pháp chúng đều vô dụng, khi đó họ vẫn còn chế độ quân chủ [vương quyền].
Những lý thuyết kinh tế này của Adam Smith đã trở thành một thứ giống như những gì trí thức nghĩ ra trong tháp ngà [thế giới cao siêu hoặc xa vời với thế giới thực], và không có nơi nào để áp dụng chúng vào thực tế.
Lý thuyết kinh tế của kinh tế thị trường tự do đã mang lại sự phát triển vượt bậc
Các vị cha lập quốc Hoa Kỳ rất thích thú cuốn “Của cải của các dân tộc” của Adam Smith, và quyết định áp dụng nó ở Hoa Kỳ. Vì vậy, lý thuyết về kinh tế thị trường tự do được trình bày trong “Của cải của các dân tộc” cuối cùng đã tìm thấy một lãnh thổ thực tiễn, và cả một quốc gia để thử nghiệm.
Kết quả của thử nghiệm là gì? Năm 1787, Hiến pháp Hoa Kỳ được Hội nghị lập hiến thông qua. Sau khi có hiệu lực vào năm 1789, kéo dài gần 120 năm đến năm 1905. Sau 120 năm, Hoa Kỳ với 5% lãnh thổ và 6% dân số trên thế giới. Đã sản xuất mọi thứ mà hơn 50% dân số thế giới cần về thực phẩm, quần áo, nhà ở và phương tiện đi lại, bao gồm cả hàng hóa xa xỉ. Đây là kết quả của việc thực hiện “Của cải của các dân tộc” của Adam Smith tại Hoa Kỳ. Quả là đáng kinh ngạc.
Kinh tế thị trường tự do là một khái niệm rất quan trọng, nó sẽ cải thiện mọi mặt của cuộc sống. Theo quy luật của tự nhiên, nếu con người có sự sống thì sẽ phát minh, sáng tạo, tạo ra của cải. Nếu con người không có quyền phát triển, sáng tạo, sở hữu, tăng thêm, kiểm soát, kinh doanh và kiểm soát tài sản của mình thì người này về cơ bản là không có tự do.
Đối với bất kỳ chính phủ nào, nếu đã bảo vệ cuộc sống của con người, thì cũng phải bảo vệ tất cả của cải do con người tạo ra. Vì vậy, nền kinh tế thị trường tự do gắn liền với điều đó. Những sản phẩm do con người tạo ra phải được mua bán giao dịch và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, đây chính là sự kéo dài tự nhiên của cuộc sống.
Sáu nguyên tắc của nền kinh tế thị trường tự do
Tìm hiểu qua tác phẩm “Của cải của các dân tộc“, hoặc trong bản chất của nền kinh tế Mỹ khi đó. Có một vài nguyên tắc kinh tế rõ ràng và đơn giản.
Đầu tiên là làm những gì thuộc điểm mạnh. Mỗi người đều tự tìm kiếm một nghề mà mình có sở trường. Chỉ chuyên sản xuất và làm thật tốt sản phẩm đó.
Thứ hai, chính phủ không can thiệp vào trao đổi thị trường. Mọi người đang mua, bán và trao đổi mọi thứ trên thị trường tự do, và chính phủ không can thiệp đến điều đó.
Thứ ba, thị trường tự do kết nối cả cung và cầu.
Thứ tư, giá cả do cạnh tranh quyết định. Chính phủ không thể định giá, và không ai được phép định giá. Giá cả được quyết định bởi cạnh tranh.
Thứ năm, lợi nhuận đến từ giá trị sản phẩm. Nói trắng ra, nếu sản phẩm bạn làm không tốt, bạn sẽ không có lợi nhuận.
Thứ sáu, sử dụng cạnh tranh để nâng cao chất lượng, tăng sản lượng và hạ giá thành.
Đây là những nguyên tắc kinh tế đơn giản, được trình bày trong cuốn “Của cải của các dân tộc“. Trong đó còn đi kèm với các yếu tố quan trọng khác được gọi là tự do kinh tế.
Ngày nay nhiều người có thể nói về những điều này rất rõ ràng, không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng đó là một sáng kiến độc đáo, tiên phong vào lúc bấy giờ. Nó quy định chính phủ không được định giá, nhưng chính phủ thích định giá. Khi giá cao thì muốn chèn ép giá, chỗ nào thiếu cái gì thì chuyển hàng từ chỗ này đến chỗ kia. Chính phủ thích can thiệp khi thấy có vấn đề xảy ra.
Sau này chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã “can thiệp vào thị trường” làm cho nó “lộn xộn”. Kết quả là kinh tế kế hoạch bị sụp đổ. Do đó, hệ thống kinh tế mà Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện vào thời điểm đó là kinh tế thị trường tự do, và chính phủ “rút tay” khỏi thị trường.
Có 4 quyền tự do kinh tế cơ bản để thực hiện nền kinh tế thị trường tự do
Thứ nhất, là quyền tự do thử nghiệm, cho phép bất kỳ ai thử nghiệm làm ra sản phẩm.
Thứ hai, là tự do mua hàng. Bạn không thể nói những thứ này, hay thứ kia, tôi không được phép mua.
Thứ ba, là tự do bán. Bạn có thể bán bất cứ nơi nào bạn muốn, không bị giới hạn bởi khu vực địa lí.
Thứ tư, là tự do thất bại. Bạn có thể thất bại, có thể phá sản, phá sản là chuyện bình thường. Như vậy bạn có thể bắt đầu lại từ đầu.
Bốn quyền tự do này đảm bảo sự trôi chảy của các hoạt động kinh tế.
Vai trò và trách nhiệm mà chính phủ nên thực hiện
Các nhà sáng lập nước Mỹ đã đồng ý với Adam Smith rằng, mối đe dọa lớn nhất đối với sự thịnh vượng kinh tế của một quốc gia là sự can thiệp bừa bãi của chính phủ vào các doanh nghiệp tư nhân, và các hoạt động kinh tế. Nhưng chính phủ không phải là không có vai trò, có bốn trách nhiệm mà chính phủ phải thực hiện.
Đầu tiên; chính phủ có trách nhiệm xóa bỏ mọi hành vi hoặc thế lực cưỡng chế mua bán, có thể tồn tại trên thị trường.
Thứ hai, chính phủ phải ngăn chặn gian lận trên thị trường. Ví dụ như gian dối về chất lượng sản phẩm, nơi sản xuất và nhà sản xuất.
Thứ ba, chính phủ có trách nhiệm xóa bỏ độc quyền. Khi doanh nghiệp kinh doanh quá thành công, họ sẽ định giá theo ý muốn, bóp chết tất cả các doanh nghiệp cùng ngành khác thì chính phủ phải “can thiệp”.
Thứ tư, chính phủ phải loại bỏ những sản phẩm làm băng hoại đạo đức. Cấm bán các sản phẩm ví dụ, nội dung khiêu dâm, tục tĩu, mại dâm, ma túy, cờ bạc … Chính phủ chịu trách nhiệm về điều đó.
Bốn vai trò trên có ý nghĩa rằng chính phủ giống như một cảnh sát trên thị trường. Duy trì trật tự, quản lý những điều bất hợp pháp và trái đạo đức trong các hoạt động kinh tế. Sau khi thực hiện lý thuyết kinh tế của Adam Smith. Hoa Kỳ đã thịnh vượng, vượt qua tất cả các nước trên thế giới, để trở thành đầu tàu của nền kinh tế thế giới.
Những lý do lịch sử cho sự chệch hướng của nền kinh tế Hoa Kỳ
Sau năm 1900, nền kinh tế Hoa Kỳ đã có một số thay đổi lớn, liên quan đến xu hướng tư tưởng cộng sản lúc bấy giờ. Một số sự kiện lớn đã xảy ra.
- Một cuộc đình công quy mô lớn, khiến người Mỹ rất phiền não. Tại sao chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đang thực hiện lại khiến nhiều người bãi công như vậy? Học thuyết đã khiến công nhân bãi công
- Các nhà máy thép và các công ty đường sắt ngày càng lớn mạnh, cuối cùng họ bắt đầu kiểm soát giá cả [độc qyền] khiến người Mỹ rất lo lắng.
- Sự xuất hiện của một chu kỳ kinh tế bí ẩn [khủng hoảng kinh tế] lúc đó người ta cảm thấy không hiểu sự thịnh vượng và suy tàn này có phải là tội ác do chủ nghĩa tư bản mang lại hay không?
- Sự xuất hiện của các liên đoàn lao động mạnh, nói với chính phủ rằng chúng ta phải bình đẳng giữa người giàu và người nghèo.
Tất cả những điều này làm dấy lên những nghi ngờ nhất định về hệ thống kinh tế tự do. Khi cuộc Đại suy thoái xảy ra vào năm 1929, nền kinh tế Mỹ sụp đổ chỉ trong một đêm. Sự cố đó đã trở thành một bước ngoặt giữa “kỷ nguyên cũ” và “kỷ nguyên mới”.
Sau cuộc Đại suy thoái, Franklin D. Roosevelt được bầu làm tổng thống và bắt đầu một chính phủ trung ương đầy quyền lực. Chính phủ đã chi rất nhiều tiền để thực hiện “Chính sách kinh tế mới”. Kể từ đó, nhiều người cho rằng tác phẩm “Của cải của các dân tộc” của Adam Smith không còn hợp thời, mang rất nhiều tệ nạn của chủ nghĩa tư bản.
Chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới, và cần phải làm lại từ đầu. Vào thời điểm đó, thứ thay thế lý thuyết của Adam Smith được gọi là “Tư bản luận” [Das Kapital], một tác phẩm của Karl Marx.
“Tư bản luận” đã du nhập vào rất nhiều trường đại học ở Mỹ. Từ đó các trường đại học không còn dạy “Của cải của các dân tộc” của Adam Smith. Cũng không dạy quan điểm kinh tế của những người cha lập quốc nữa. Thay vào đó họ dạy tư tưởng của Karl Marx. Lúc đó chủ nghĩa Keynes chưa ra đời, nhưng đã bắt đầu từng bước “chiếm lĩnh”. Lịch sử của Hoa Kỳ dần dần tiến tới chính phủ trung ương, bao gồm một mức độ nhất định của nền kinh tế kế hoạch.
Mãi đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1951. Một số học giả nổi tiếng mới xuất hiện và bắt đầu viết sách về những tệ nạn của chủ nghĩa xã hội. Trong đó có cuốn sách nổi tiếng là “Bi kịch của chủ nghĩa xã hội”. Vào thời điểm đó, sau năm 1951 và sau những năm 1960, các học giả Mỹ dần quay đầu tìm lại cuốn sách của Adam Smith và hiểu lại sự đơn giản và kỳ diệu của lý thuyết của Adam Smith .
Tác giả cuốn “Bước nhảy vọt 5000 năm” (The Five Thousand Year Leap) W. Cleon Skousen cho rằng; trên thực tế, sinh viên đại học kinh tế nên đọc sách của Adam Smith trong năm đầu tiên. Sau đó đọc các sách do các cha ông lập quốc viết trong thời kỳ thành lập nước Mỹ. Đây là cách tốt nhất để học cách điều hành nền kinh tế.
Người Mỹ cần phải quay lại cách thức mà những người cha sáng lập và Adam Smith đưa ra cho nền kinh tế. Đó thực sự là một công thức cho sự thịnh vượng thực sự trong xã hội.
Tuy nhiên, để xã hội và nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định và thịnh vượng, cần phải thực hiện một nhiệm vụ chưa hoàn thành trong lịch sử. Vậy đó là vấn đề gì?
Vấn đề tiền tệ gây ra chu kỳ thịnh vượng và suy giảm
Trong cuốn sách Bước nhảy vọt 5000 năm, một sai lầm chết người hơn trong thiết kế kinh tế của Hoa Kỳ được chỉ ra. Đó là chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ.
Khi Hội nghị Lập hiến được tổ chức tại Philadelphia, những người sáng lập đã quyết định rằng đồng tiền của Hoa Kỳ [đồng đô la Mỹ] không được thao túng hoặc ảnh hưởng bởi bất kỳ thế lực bên ngoài nào, mà hoàn toàn do người dân quyết định. Bởi vì Quốc hội bao gồm những đại diện do nhân dân bầu ra, đại diện của nhân dân Hoa Kỳ là Quốc hội. Do đó, chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ phải do Quốc hội quyết định.
Không chỉ vậy, các quốc phụ còn tuyên bố rằng; Quốc hội phải đảm bảo sự ổn định của sức mua đồng tiền, bất luận là trong hay ngoài nước. Ngoài ra, giá trị thực đằng sau của tiền giấy phải tương ứng với các kim loại quý như vàng và bạc thật. Ngày nay chúng ta gọi là “bản vị vàng”.
Đồng đô la Mỹ không hiện tại phải là “bản vị vàng”, phía sau nó là cái gọi là sự tín nhiệm của chính phủ Mỹ. Do đó, chính phủ Mỹ có thể tự quyết định in bao nhiêu tiền. Nếu in số lượng lớn tiền thì mọi người phải chấp nhận lạm phát hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng đây không phải là điều mà những người cha lập quốc muốn. George Washington đã nói rõ vào thời điểm đó rằng; chúng ta không được để đồng tiền mất giá, giá trị thực của đồng đô la phải là vàng, bạc.
Rất tiếc, chính sách này đã không được thực hiện. Bởi vì khi bản Hiến pháp mới ra đời, nước Mỹ đang phải đối mặt với tình trạng kinh tế suy thoái, cộng với sức ép khổng lồ từ các ngân hàng lớn của châu Âu và Mỹ, và những sai sót về chính sách khác. Cuối cùng chính phủ đã trao quyền phát hành tiền tệ cho một nhóm ngân hàng để thành lập liên minh ngân hàng “Ngân hàng Hoa Kỳ” [Bank of the United States], ngày nay nó được gọi là “Cục Dự trữ Liên bang” [Federal Reserve System – Fed].
Thomas Jefferson, một trong những người cha sáng lập lúc đó, đã rất tức giận vì điều này. Ông đã lớn tiếng lên án nếu chúng ta giao tiền cho ngân hàng, họ sẽ sử dụng lạm phát hoặc giảm phát [luân phiên], chính họ và các công ty sẽ lớn lên nhờ chúng tự vỗ béo cho nhau, và trẻ em Mỹ sẽ thấy rằng của cải và nhà cửa do cha chúng tạo ra sẽ mất đi. Vì vậy, quyền tiền tệ phải được trả lại cho người dân và cho Quốc hội!.
Cảnh báo của Thomas Jefferson nghe có vẻ quá nghiêm trọng. Nhưng có bất kỳ dấu hiệu nào về điều đó không? Cứ sau mỗi đợt suy thoái kinh tế, phải chăng những người dân thường vay thế chấp đã mất nhà? đóng cửa công ty? Ngân hàng lấy nhà đi à? Liệu tầm nhìn xa của Jefferson có chính xác không?
Ngoài ra, người dân sau khi làm việc chăm chỉ kiếm được tiền thì lại gửi tiền vào ngân hàng. Theo thời gian lạm phát sẽ khiến tiền lương của họ bị thu hẹp và mất giá trị. Đây là hiện tượng chúng ta quen thuộc từ lâu, nhưng chúng ta có từng suy xét, hiện tượng này là đúng hay sai?
Tại sao tiền tệ mất giá một cách tự động và liên tục? Những người bình thường không làm gì sai, vậy tại sao sự giàu có của họ sẽ tự động thu hẹp lại? Điều này có nên không? Tất cả những của cải bị mất này đã đi về ai? Đây là vấn đề tiền tệ mà chúng ta phải thảo luận sâu hơn.
Ở Mỹ, có một khái niệm gọi là “ngân hàng dự trữ phân đoạn” – fractional banking. Điều đó nghĩa là gì? Nghĩa là ngay cả khi ngân hàng hiện chỉ có một triệu đô la Mỹ tài sản, nó có thể giải ngân từ bốn đến năm triệu đô la Mỹ cho vay. Nghĩa là, một triệu đô la Mỹ tài sản thực tế của nó chỉ cần bằng một phần nhỏ trong tổng số khoản giải ngân cho vay của nó.
Thomas Jefferson nói rằng, 75% các khoản vay do ngân hàng phát hành là tiền giả “không tồn tại”. Ngân hàng phát hành số tiền gấp 4-5 lần tài sản thực tế. Người dân lấy số tiền “không tồn tại” vay từ các ngân hàng này và bắt đầu sửa nhà, thành lập công ty, thổi căng bong bóng kinh tế, sau khi quả bong bóng nổ “bùm”. Ngân hàng sẽ thu những ngôi nhà hoặc công ty không trụ vững được kia vào tay của chính họ.
Do đó, khi nền kinh tế “thịnh vượng”, ngân hàng thu được lợi tức gấp 4-5 lần từ tiền giả mà nó phát hành. Khi nền kinh tế “suy thoái”, ngân hàng sẽ tịch thu nhà hoặc công ty từ những người không có khả năng chi trả khoản vay. Sự thịnh vượng và suy giảm kinh tế này đã kéo dài hơn 200 năm. Sau khi công nghiệp hóa, tần suất và biên độ của nó còn trở nên lớn hơn.
Nhưng ở đây, hiện tượng ngân hàng cho vay gấp mấy lần tài sản thực có. Do chính ngân hàng “tự bật đèn xanh” cho mình, vì để “vỗ béo” làm giàu cho bản thân nên mới sinh ra việc này.
Trong lịch sử Hoa Kỳ, từ Tổng thống Jefferson, Tổng thống Jackson đến Tổng thống Lincoln. Họ đều muốn lấy lại quyền đúc/in tiền từ các ngân hàng và trả lại cho Quốc hội. Đồng thời quy định ngân hàng có bấy nhiêu tiền thì cho vay bấy nhiêu. Cấm không được cho vay tiền ảo. Vì như vậy sẽ phá vỡ chu kỳ kinh tế “thịnh vượng suy tàn” này, nhưng đều thất bại.
Nền kinh tế Mỹ muốn cất cánh mới trở lại, phải trở về với nguyên tắc ban đầu
Do đó, nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ, những thăng trầm, đều do các ngân hàng gây ra [theo lý luận của các nhà lập quốc]. Tất nhiên, có quá nhiều vấn đề xã hội vào đầu những năm 1900 cũng liên quan đến phong trào cộng sản nổi lên vào thời điểm đó, chủ đề quá lớn, chúng tôi sẽ không đi vào chi tiết.
Sau khi Tổng thống Trump nhậm chức. Ông đã triển khai hàng loạt biện pháp nhằm vực dậy nền kinh tế Mỹ, với kết quả ấn tượng. Vì vậy, tại một số thời điểm trong tương lai, khi chính phủ của phe bảo thủ trở nên mạnh mẽ hơn, ông W. Cleon Skousen tin rằng; một đạo luật cần được xây dựng để điều chỉnh hoàn toàn chính sách kinh tế của đất nước, và quay trở lại các nguyên tắc xây dựng quốc gia.
Đầu tiên là khôi phục chế độ bản vị vàng và sử dụng vàng để hỗ trợ tiền tệ.
Thứ hai, Cục Dự trữ Liên bang phải trao lại quyền in tiền cho Quốc hội. Tất nhiên, có thể có nhiều điều không mong muốn trong hoạt động thực tế, nhưng để trở lại đúng đường thì quả thực cần phải làm như vậy.
Nếu Hoa Kỳ sửa chữa sai lầm lịch sử này. Ông Scoulson tin rằng Hoa Kỳ, một quốc gia đã dẫn đầu thế giới, có thể có một nền kinh tế khỏe mạnh hơn và có thể cất cánh ngày càng cao.
Hiến pháp Hoa Kỳ Bước nhảy vọt 5000 năm