Tô Duy Hợp và thuyết Khinh-Trọng: Thuyết Khinh – Trọng là một thuyết phổ quát, phổ dụng. Được hình thành trong quá trình nghiên cứu triết học và xã hội học mà GS Tô Duy Hợp đã dành trọn tâm huyết, sức lực của cuộc đời để cống hiến. Đồng thời đây là thành quả đóng góp của ông trong cuộc đời nghiên cứu lý luận & khoa học của mình. Để hiểu rõ hơn về thuyết này, có lẽ nên cần thiết phải nhìn lại cuộc đời của tác giả và quá trình xây dựng vận dụng lý thuyết của ông.

GS. TÔ DUY HỢP (Quảng Ngãi – 1942)
Là con trong một gia đình cán bộ hoạt động cách mạng. Vì điều kiện sống khó khăn nên ông có tinh thần tự lập sớm, đồng thời cũng có một tâm hồn tự do và phóng khoáng. Đây cũng chính là tiền đề cho cuộc đời vị Giáo sư đáng kính sau này.
Bước ngoặt đầu
- Năm 1961, ông được cử sang Liên Xô học đại học, ngành Triết học. Tại đây, ông theo học chuyên ngành Logic học được tiếp cận với những khái niệm, tài liệu về logic của Liên xô và thế giới. Như ông nói; “Quá trình học triết học ở Liên Xô chưa thật sự làm cho tôi rõ nét hơn về con đường mình lựa chọn sau này. Tuy nhiên, nó củng cố niềm yêu thích triết học. Đặc biệt, những tri thức ban đầu về Logic học giúp tôi có nền tảng lý luận & khoa học hơn trong quá trình tư duy về các sự vật, hiện tượng”. Nhưng không may năm 1964, Đảng Cộng sản Việt Nam đã yêu cầu các sinh viên, cán bộ đi học ở Liên Xô, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học và khoa học xã hội phải về nước. Tô Duy Hợp rời Liên Xô khi chưa hoàn thành chương trình đại học triết học.
Sau khi về nước
- Khi về nước, ông chuyển sang học ngành Vật lý hạt nhân tại Đại học Tổng hợp Hà Nội.
- Năm 1967-1974, dù làm công tác giảng dạy vật lý tại Đại học Xây dựng Hà Nội nhưng ông luôn chuẩn bị và chờ thời cơ để xin chuyển sang nghiên cứu về triết học theo đúng niềm đam mê “Nàng Triết” của mình.
- Năm 1974, Tô Duy Hợp được về Viện Triết học (thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam) công tác. Tiếp tục nghiên cứu về chuyên môn chính từng học ở Liên Xô là Logic học.
- 15 năm công tác tại Viện Triết học (1974-1989) là quãng thời gian quan trọng để Tô Duy hợp xây dựng quan điểm lý thuyết Khinh – Trọng của ông.
- Năm 1989, ông chuyển qua Viện Xã hội học làm việc và mở đầu cho một chuyên ngành mới của ông Xã hội học nông thôn. Lúc này, ông phải tiến hành tự học về những kiến thức cơ bản nhất của một ngành mới và bắt đầu đi thực địa nghiên cứu xã hội học nông thôn.
- Đầu những năm 2000, ông tiếp xúc với quan điểm của G. Ritzer trong Công trình “Contemporary sociological Theory” (Lý thuyết xã hội học đương đại, xuất bản 1992, ở Mỹ). Chính công trình này đã tạo nguồn cảm hứng cho ông tiếp tục tổng – tích hợp lý thuyết trong Xã hội học để hoàn thiện Lý thuyết Khinh – Trọng.
Công trình đầu tiên là cuốn “Khinh – Trọng một Quan điểm lý thuyết trong nghiên cứu triết học và xã hội học” (Nxb Thế giới, 2007). Đây là một tuyển tập gồm 36 bài viết của GS Tô Duy Hợp. Trong đó có 18 bài viết về Triết học và 18 bài viết về Xã hội học do ông tuyển chọn trong hàng chục công trình nghiên cứu đã công bố của mình.
Công trình thứ hai đóng vai trò vô cùng quan trọng và là nền tảng của toàn bộ Lý thuyết Khinh – Trọng đó là; “Khinh-Trọng Cơ sở lý thuyết” (Nxb Thế giới, 2012). Đây cũng là công trình ra đời khi GS Tô Duy Hợp tròn 70 tuổi. Một mốc thời gian đủ để nhìn lại và tổng kết những tâm huyết của cuộc đời hoạt động lý luận & khoa học.
Học thuyết Khinh – Trọng
Về Triết học; “Quan điểm Khinh – Trọng với tư cách là cơ sở lý luận và phương pháp luận của một triết học mới, xuất phát từ cặp phạm trù Khinh – Trọng như một cặp phạm trù cơ bản và nguyên tắc Khinh – Trọng như một định đề cơ bản. Nguyên tắc Khinh – Trọng là chủ thể thì tự chủ, còn khách thể thì tự nó có phân biệt hoặc/và không phân biệt, có điều chỉnh hoặc/và không điều chỉnh, có thay đổi hoặc/và không thay đổi Khinh – Trọng.
Việc hóa giải các song đề (chính đề hoặc/và phản đề) sẽ được thao tác qua việc lựa chọn hợp lý (và cả hợp tình) các khung mẫu Khinh – Trọng, bao gồm các khung mẫu phân biệt Khinh – Trọng có mức độ, các khung mẫu phân biệt Khinh – Trọng thái quá và cả các khung mẫu không phân biệt Khinh – Trọng. Sự điều chỉnh hoặc thay đổi Khinh – Trọng có nghĩa là điều chỉnh hoặc thay đổi các khung mẫu nêu trên. Các khung mẫu mang tính phổ quát, phổ dụng cho việc thấu hiểu và hóa giải các song đề lý luận và thực tiễn”
Nếu nghiên cứu triết học là con đường để Tô Duy Hợp đến với các quan điểm Khinh – Trọng, thì Xã hội học là con đường để ông khẳng định lại quan điểm của mình, và vận dụng trong các nghiên cứu cụ thể để xây dựng hệ thống lý thuyết.
Như ông đã trình bày; “Tiếp cận Khinh – Trọng trong nghiên cứu xã hội học không đơn giản chỉ là kết quả vận dụng lôgích Kinh – Trọng. Bởi lẽ lôgích Khinh – Trọng chính hiệu (dưới dạng phổ quát và phổ dụng) không có sẵn ngay từ đầu mà dần dần định hình trong quá trình triển khai nghiên cứu triết học và xã hội học. Nghiên cứu xã hội học đã góp phần định hình quan điểm Khinh – Trọng và các khung mẫu. Khinh – Trọng bằng con đường quy nạp khoa học đã góp phần khẳng định lôgích Khinh – Trọng với tư cách là cơ sở của triết học mới”
Tô Duy Hợp & lý thuyết khinh trọng
Sự hình thành Lý thuyết Khinh – Trọng là quá trình tổng-tích hợp các Lý thuyết triết học và xã hội học kim – cổ Đông – Tây. Trong quá trình nghiên cứu ông đã dành nhiều tâm huyết để khảo sát các tư tưởng quan trọng trong triết học phương Đông và phương Tây. Ông quan tâm nhiều đến các triết lý dân gian của Việt Nam, hay Tư tưởng của nhiều người đi trước. Từ Nguyễn Trãi; Nguyễn Bỉnh Khiêm; Ngô Thì Nhậm; Lê Quý Đôn; Nguyễn Du; Hồ Chí Minh; Phan Chu Trinh; Phan Bội Châu… Hay khảo sát quan điểm của các nhà nghiên cứu đương thời như Phan Ngọc; Trần Quốc Vượng; Hà Văn Tấn; Cao Xuân Huy; Trần Ngọc Thêm…
Cùng với đó là việc khảo sát quan điểm về triết học phương Tây để tìm những hạt nhân hợp lý cho quan điểm lý thuyết.
Như GS Tô Duy Hợp đã nhấn mạnh:
“Lý thuyết khinh-trọng, với tư cách là một khung lý thuyết mới mang tính phổ quát; phổ dụng sẽ có cơ sở riêng = hạt nhân của nó bao gồm 3 thành phần:
1- Các khái niệm cơ bản.
2- Các định đề cơ bản.
3- Cơ sở lôgích khinh-trọng.
Hướng dẫn quá trình luận thuyết và dụng thuyết Khinh – Trọng. Ngoài ra, do đặc điểm tự phản tư của nó cơ sở riêng của lý thuyết Khinh – Trọng sẽ trở thành cơ sở siêu lý thuyết của chính nó. Điều đó có nghĩa rằng lý thuyết Khinh – Trọng có đặc trưng kép:
Vừa là lý thuyết vừa là siêu lý thuyết”.
Nói tóm lại, lý thuyết Khinh – Trọng là một lý thuyết khoa học phổ quát, phổ dụng. Được hình thành trên cơ sở các nghiên cứu triết học và xã hội học của GS. Tô Duy Hợp và đang được vận dụng trong các nghiên cứu cụ thể về các đối tượng bất kỳ trong tự nhiên; xã hội; và tư duy.
Như GS Tô Duy Hợp chia sẻ có hai phương thức để xây dựng Lý thuyết.
– Thứ nhất là khái quát hóa những kinh nghiệm hay khái quát hóa những dữ liệu thực nghiệm khoa học. Chủ yếu bằng con đường quy nạp (ngoại suy) / loại tỷ (loại suy) để xây dựng thuyết.
– Thứ hai là xây dựng Lý thuyết mới từ những lý thuyết cũ qua quá trình phân tích; phê phán; đề xuất ý tưởng mới. Hay theo con đường suy diễn (nội suy) từ các lý thuyết tổng quát trừu tượng để có được lý thuyết cụ thể hơn
Trên cơ sở đó, Lý thuyết Kinh – Trọng được ông xây dựng dựa trên cả hai phương pháp. “Một mặt, tiến hành tổng – tích hợp hạt nhân hợp lý và hợp tình của các kinh nghiệm khinh – trọng và của các lý thuyết sẵn có. Tuy không có diễn ngôn Khinh – trọng dưới dạng tường minh nhưng xét về thực chất thì có hàm ý khinh – trọng (sau khi được giải mã). Mặt khác, đề xuất giả thuyết Khinh – Trọng dưới dạng phổ quát, phổ dụng rồi cố gắng biến giả thuyết nền tảng mới đó thành lý thuyết nền tảng mới thông qua 3 bước cơ bản:
1- Lập thuyết khinh-trọng,
2- Luận thuyết khinh-trọng,
3- Dụng thuyết khinh-trọng”
Trong suốt quá trình Lập thuyết (xác lập cơ sở riêng của lý thuyết); Luận thuyết (xác định Logic biện luận và tiến hành luận thuyết); Dụng thuyết (triển khai vận dụng lý thuyết trong phạm vi sức mạnh và khả năng của lý thuyết đó) Khinh – trọng ông đã nhấn mạnh đến hai cuộc tiếp xúc quan trọng.

Trước hết là cuộc tiếp xúc với quan điểm của S. Hungtinton qua cuốn Sách “Sự va chạm giữa các nền văn minh” (2003). Cuộc tiếp xúc này đã khiến ông mừng rỡ vì đã giúp ông biểu đạt chiều chuyển động; và phương thức chuyển động của các mô hình như tuyến tính hay zích zắc; thuận nghịch hay bất thuận nghịch,… Ông đã mô phỏng theo hình vẽ của S. Hungtinton để thể hiện phương thức điều chỉnh thay đổi … để hoàn thiện lý thuyết Khinh – Trọng của mình.
Năm 2009, lý thuyết Khinh – Trọng hoàn thiện thêm một bước sau cuộc tiếp xúc với quan điểm của Edgar Morin qua công trình “Nhập môn tư duy phức hợp” (Nxb Tri thức, 2009). Cuộc tiếp xúc này giúp ông “khẳng định tư duy Khinh – Trọng là một tư duy phức hợp cao độ… Từ đây, diễn ngôn của ông có thay đổi khi nhắc đến các cặp nan đề bao giờ cũng có cụm từ “hoặc/và”. Trải qua những cuộc tiếp xúc quan trọng đó, gắn với quá trình vận dụng nghiên cứu các trường hợp cụ thể cùng với các học trò, đồng nghiệp. Lý thuyết Khinh – Trọng của GS Tô Duy Hợp ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, và phát triển.
Quá trình lập và luận thuyết trải qua nhiều gian nan, hao tổn sức lực tâm huyết của ông. Nhưng quá trình dụng thuyết và phổ biến lý thuyết lại đòi hỏi bản lĩnh của một nhà lý luận & khoa học một người khởi xướng lý thuyết mới. Nhất là trong bối cảnh Việt Nam. Lý thuyết là vấn đề mới mẻ ít được quan tâm và cũng khó được chấp nhận. (vì “bụt chùa nhà không thiêng”!) thì càng phải bản lĩnh hơn. Trước hết là bản lĩnh để đương đầu với những phê phán từ các đồng nghiệp.
Như GS Tô Duy Hợp chia sẻ; “Một thuyết khoa học mới ra đời và phát triển được trong bối cảnh Việt Nam là không dễ dàng. Nhiều khi, sự phê phán không đến từ chuyên môn mà xuất phát từ sự đố kỵ; ghen ghét; không muốn người khác thành công hay không chấp nhận sự sáng tạo mang tính cá nhân của người khác. Có những người đồng nghiệp đã nói với tôi là. “Rất tiếc, anh chưa đủ điên rồ để trở thành chân lý!”. Thậm chí có người còn chỉ thẳng tôi hỏi là “Rút cuộc, ở đất nước này anh khinh ai? Anh trọng ai phải nói rõ?”… Những phê phán như không đúng về mặt chuyên môn và không có giá trị về quan điểm, nhưng đã gây ra những khó khăn, trở ngại cho hà nghiên cứu”.

Bên cạnh đó, sự phê phán mang tính chuyên môn lại là một điều cần thiết. Như GS Tô Duy Hợp nhận định:
“Quá trình phê phán rất quan trọng trong nghiên cứu lý luận & khoa học. Đặc biệt là vấn đề lý thuyết. Nó gắn liền với quá trình lập thuyết và luận thuyết. Phải có tinh thần cầu thị, lắng nghe ý kiến của nhiều người; nhiều phía và tiếp nhận nhiều ý kiến khác chiều, trái chiều. Tóm lại là cần có bản lĩnh để lắng nghe, điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn lập luận của mình”.
Với tinh thần đó, trong nhiều năm qua. Ông và các học trò cộng sự đã không ngừng bổ sung hoàn thiện ý thuyết Khinh – Trọng. Càng ngày, việc vận dụng lý thuyết này vào các nghiên cứu càng được mở rộng. Được nhiều nhà nghiên cứu, đào tạo, quản lý quan tâm hơn. Quá trình Lập Thuyết, Luận Thuyết, và Dụng Thuyết khinh – trọng vẫn tái tiếp diễn bất tận, vì phù hợp với các giá trị cốt lõi của quá trình mưu sinh và phát triển lành mạnh của mỗi Cá nhân, mỗi Cộng đồng, và của toàn Nhân Loại, đó là: CHÂN (ĐÚNG), THIỆN (TỐT), MỸ (ĐẸP), LỢI ÍCH, LINH THIÊNG.
Trần Thị Minh Anh
Theo TÔ DUY HỢP VÀ LÝ THUYẾT KHINH-TRỌNG của Ths. Bùi Minh Hào.
Xem thêm:
Chọn người lãnh đạo giáo dục như thế nào?
Khung cửa hẹp
SỞ HỮU TRÍ TUỆ TỪ TRI THỨC DÂN GIAN
“KHÔNG BAO GIỜ TỪ BỎ” LÀ BẤT KHẢ THI
Mong tác giả sẽ viết thêm nhiều bài về các nghiên cứu của GS. Tô Duy Hợp. Có nhiều tầng nghĩa trong bài viết mình chưa thể hiểu hết do tầm hiểu biết còn hạn hẹp, theo cảm nhận thì Khinh-Trọng len lỏi trong đời sống rất nhiều, nhưng chưa có ai cô đọng thành một học thuyết cụ thể như GS.
Hình như giáo trình logic học ở trường mình đọc là của GS.Tô Duy Hợp chủ biên
“Một thuyết khoa học mới ra đời và phát triển được trong bối cảnh Việt Nam là không dễ dàng. Nhiều khi, sự phê phán không đến từ chuyên môn mà xuất phát từ sự đố kỵ, ghen ghét. Không muốn người khác thành công hay không chấp nhận sự sáng tạo mang tính cá nhân của người khác.” câu này nghe thấm quá
Đọc xong lại nhớ đến câu “Nhất bên trọng, nhất bên khinh”
Hồi ấy chưa hứng thú với Triết học, đọc xong bài này cảm thấy bản thân cần phải bổ sung thêm kiến thức về môn này.
Theo quan điểm lý thuyết khinh trọng thì sự lựa chọn giải pháp ưu tiên trong xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc và của các nhà nước khác nhau trên thế giới ngày nay là hợp lý và hợp tình. Điều đó có nghĩa rằng yêu cầu đồng thời đạt cả ba mục tiêu như nhau của lý thuyết phát triển bền vững là mong ước lý tưởng, rất khó đạt được trong thực tế mà nếu cố chấp thì sẽ là ảo tưởng hoặc là lời hứa hẹn hão huyền.
Tô Duy Hợp đã phát triển lý thuyết khinh-trọng của mình trong các nghiên cứu xã hội học nông thôn đề cập đến ba sự phân đôi cụ thể của nông dân. Đó là lí do mình thích ông và đọc bài của tác giả khiến mình thích hơn nữa
Khi nhắc đến giáo sư Tô Duy Hợp mình luôn nhớ đến mô hình cực đoan “mất cái này, được cái kia”
Bài viết phân tích hợp lý, mình cũng thấy là lý thuyết khinh trọng được giáo sư xây dựng dựa trên cả hai phương pháp: “một mặt tiến hành tổng-tích hợp hạt nhân hợp lý và hợp tình của các kinh nghiệm khinh trọng và của các lý thuyết sẵn có
Hồi xưa cũng không thích Triết lắm nhưng có lẻ cách khai thác của tác giả đã làm mình thay đổi suy nghĩ về môn học này. Rất đáng để thêm vào kiến thức của bản thân
Quá trình giáo sư vận dụng các quan điểm khinh – trọng và phân tích đặc điểm bản chất của các quá trình tương tác, biến đổi xã hội đã cho mình thức nhận rõ ràng hơn về các khung mẫu khinh – trọng
Sự ra đời Lý thuyết khinh-trọng do GS.TS Tô Duy Hợp xây dựng là một khám phá mới mẻ.
Hình như ông đã mô phỏng theo hình vẽ của S. Hungtinton để thể hiện phương thức điều chỉnh, thay đổi khinh-trọng… để hoàn thiện lý thuyết của mình. Phải nói là rất “bánh cuốn”
Mấy cái triết học hơi khó hiểu nhưng thật sự rất hay đấy, mình cũng đang tìm hiểu về các học thuyết, mong có nhiều bài viết như thế này.
Mong sẽ có thêm bài viết phân tích nhiều hơn về thuyết Khinh – Trọng
Quan điểm lý thuyết khinh – trọng sẽ là quan điểm lý thuyết phổ quát, phổ dung cho phép thấu hiểu và hóa giải các tình trạng nan đề trong tư duy và của tư duy nói riêng, trong nhận thức và hành động thực tiễn nói chung một cách hợp lý, hợp tình hơn cả.
Để xây dựng học thuyết này, GS. Tô Duy Hợp đã cống hiến và theo đuổi bằng cả tâm huyết và sức lực của mình. Thành quả của một đời nghiên cứu lý luận và khoa học.
Triết học là một phạm trù rất khó về tư duy nhưng có lẻ qua tay giáo sư Tô Duy Hợp mình đã có góc nhìn khác về môn học này và bị cuốn bởi nghiên cứu của giáo sư
Mấy bạn học Triết, xem quá trình hình thành học thuyết này thì rất hay nhé
GS Tô Duy Hợp đã xây dựng một học thuyết vô cùng đáng giá, chắc mình sẽ tìm đọc thêm sách và tài liệu về học thuyết này, cũng đáng để tìm hiểu
Có ai bị thuyết phục về lý thuyết khinh-trọng, tính chất đặc trưng kép: vừa là lý thuyết vừa là siêu lý thuyết. Mình cực thích phần này
Mình thấy hơi khó khi áp dụng thực tế nhỉ. Tiếp cận khinh – trọng thích hợp cho việc thấu hiểu và hóa giải các song đề của xã hội học tam nông. Về nguyên tắc, tiếp cận khinh – trọng có thể áp dụng cho mọi chuyên ngành xã hội học và cho cả xã hội học đại cương.
Nhìn thấu hồng trần với lý thuyết của giáo sư: nhất là về sự phê phán người khác
Bài viết có tâm quá ạ <3
Những lời phê phán không căn cứ nhìn có vẻ không có gì hại nhưng thực chất nó gây ra hậu quả rất lớn
Mong sẽ có thêm bài viết phân tích nhiều hơn về thuyết Khinh – Trọng. Mình rất thích chủ đề này
Bài viết làm mình phải suy ngẫm rất nhiều
Mình không giỏi về triết nhưng bài viết làm mình có sự hứng thú với các vấn đề cốt lõi, bản chất, mình sẽ bắt đầu tìm hiểu thêm
GS Tô Duy Hợp đã tạo nên các giá trị trong các nghiên cứu của mình đóng góp cho Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung rất nhiều giá trị theo thời gian
“đứa con đầu tiên” của ngôi nhà xã hội học Việt Nam – tên là Lý thuyết Khinh Trọng của GS Tô Duy Hợp
Công trình này có thể giúp xã hội học Việt Nam có một lý thuyết hay một cách nhìn nhận và giải quyết các nan đề của xã hội đặt ra.
Một công trình nghiên cứu đầy tâm huyết :3
Cảm ơn những đóng góp của Gs. Tô Duy Hợp trên con đường hoàn thiện việc nghiên cứu học thuyết Kinh – Trọng này. Công trình nghiên cứu của thầy và cả học thuyết Kinh – Trọng thật đáng để học hỏi
Sự gian nan ấy thật đang chân quý, đây là một bài học nhìn nhận từ những đóng góp, có thể là nặng trong giới nghiên cứu là phê phán mang tính chuyên môn nhưng mục đích chung vẫn là qua đó mà người nghiên cứu có thể nhìn nhận lại những thiếu sót rõ ráng nhất và bổ sung, hoàn thiện nó!
“Quá trình phê phán rất quan trọng trong nghiên cứu lý luận & khoa học. Đặc biệt là vấn đề lý thuyết. Nó gắn liền với quá trình lập thuyết và luận thuyết. Phải có tinh thần cầu thị, lắng nghe ý kiến của nhiều người; nhiều phía và tiếp nhận nhiều ý kiến khác chiều, trái chiều. Tóm lại là cần có bản lĩnh để lắng nghe, điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn lập luận của mình”
Đây là quá trình nghiên cứu triết học và xã hội học mà GS Tô Duy Hợp đã dành trọn tâm huyết, sức lực của cuộc đời để cống hiến. Đồng thời đây là thành quả đóng góp của ông trong cuộc đời nghiên cứu của mình.
Một công trình nghiên cứu đầy tậm tâm. Vote 5 sao cho tác giả đã chia sẻ một kiến thức đầy hấp dẫn vậy. Mãi ủng hộ website.
Lần đầu biết tới To Duy Hợp và thuyết khinh trọng, cảm ơn page về kiến thức mới
Em đang tìm hiểu về triết học. Mong tác giả sẽ ra nhiều bài viết hơn :3
“Một thuyết khoa học mới ra đời và phát triển được trong bối cảnh Việt Nam là không dễ dàng. Nhiều khi, sự phê phán không đến từ chuyên môn mà xuất phát từ sự đố kỵ; ghen ghét; không muốn người khác thành công hay không chấp nhận sự sáng tạo mang tính cá nhân của người khác.
Với học thuyết Kinh – Trọng của ông đã giúp chúng ta có góc nhìn rộng hơn về xã hội và cuộc sống
GS Tô Duy Hợp đã có nhiều cống hiến lớn cho nước nhà
Tóm lại là cần có bản lĩnh để lắng nghe, điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn lập luận của mình
Bài viết rất ý nghĩa. Cảm ơn tác giả
Đọc xong bài viết có nhiều chỗ cũng khó hiểu. Thật ra không phải tình huống nào cũng dùng học thuyết khinh trọng được nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Chính trị, Văn hóa và trình độ phát triển. Học thuyết khinh trọng chỉ giải quyết đc vấn đề rất chung mà cái gì chung chung thì có thể đúng nhưng khó áp dụng.
Mất cái này thì sẽ được cái kia. Những việc bạn làm mỗi ngày thật ra đều phải lựa chọn chỉ là rất khó để bạn nhận ra sự lựa chọn củ bản thân mình.. Vui vẻ hay đau khổ suy cho cùng cũng đều do bạn chọn nhưng người ta lại hay đổ thừa nó cho những tác nhân đến từ bên ngoài. Hay nhỉ?
Nhiều khi sự phê bình không đến từ chuyên môn mà xuất phát từ lòng đố kị.